Thuốc điều trị bệnh Parkinson

A- A+

Sử dụng thuốc điều trị trong bệnh Parkinson để giúp làm giảm các triệu chứng run, giảm chậm chạp, cứng khớp và làm chậm lại tiến trình của bệnh.

Bệnh Parkinson bị gây ra bởi sự thiếu hụt một chất dẫn truyền thần kinh có tên là Dopamin. Vì vậy, để điều trị bệnh, các nhà dược học đã bào chế ra những loại thuốc nhằm thay thế cho Dopamin, hoặc bắt chước tác dụng của Dopamin trên não.

Các thuốc điều trị bệnh Parkinson hiện nay có tác dụng làm giảm run, giảm cứng đờ và chậm chạp do Parkinson gây ra. Gần đây, các nhà khoa học đang nghiên cứu thêm một số thuốc điều trị mới, nhằm mục đích làm chậm lại tiến trình phát triển của bệnh.

Parkinson là một bệnh mạn tính, việc dùng thuốc không thể điều trị bệnh khỏi hoàn toàn, nhưng sẽ giúp người bệnh cải thiện được chất lượng cuộc sống, tiếp tục duy trì công việc và sinh hoạt gần như bình thường.

Các nhóm thuốc được sử dụng trong điều trị bệnh Parkinson bao gồm:

1.  Kết hợp Levodopa - Carbidopa

Các thuốc kết hợp giữa Levodopa và Carbidopa được coi là lựa chọn hàng đầu trong điều trị bệnh Parkinson, nó có thể giúp làm giảm đến 90% các vấn đề do Parkinson. Nhưng sau một khoảng thời gian được ví như “tuần trăng mật” của thuốc (kéo dài trung bình khoảng 5 năm), thuốc sẽ bắt đầu giảm dần tác dụng, đáp ứng kém đi (nhờn thuốc).

Levodopa là một acid amin tiền chất của Dopamin. Do Dopamin trực tiếp không qua được hàng rào máu não, nên người ta sử dụng Levodopa. Sau khi qua được hàng rào máu não, Levodopa sẽ chuyển đổi thành Dopamine để bổ sung cho lượng thiếu hụt. Trong các chế phẩm dược, nó được kết hợp với Carbidopa, để tránh tình trạng các enzyme trong cơ thể có thể chuyển đổi Levodopa thành Dopamine ở các bộ phận khác, trước khi chất này qua được hàng rào máu não. Đồng thời Carbidopa giúp làm giảm một số tác dụng không mong muốn khó chịu của Levodopa như: nôn, buồn nôn. Tuy nhiên, khi sử dụng thuốc Levodopa - Carbidopa ở liều cao cũng có thể gây buồn nôn. Một số tác dụng không mong muốn khác có thể gặp bao gồm: rối loạn tâm thần, cơn huyết áp thấp, rối loạn giấc ngủ, và ảo giác.

2.  Chất chủ vận Dopamin

Đáp ứng của người bệnh Parkinson với các thuốc thuộc nhóm chủ vận Dopamin thường thấp hơn với các thuốc bổ sung trực tiếp Dopamin. Do đó nhóm thuốc này thường được kê toa một mình trong giai đoạn đầu của bệnh Parkinson và/hoặc kết hợp với nhóm Levodopa - Carbidopa ở những giai đoạn nặng hơn của bệnh.

Một số tác dụng không mong muốn của nhóm bao gồm: Hạ huyết áp tư thế, chóng mặt và buồn nôn. Một số thuốc trong nhóm này: Bromocriptine (Parlodel), Pramipexole (Mirapex), và Ropinirole (Requip).

Thuốc điều trị bệnh Parkinson giúp làm giảm các triệu chứng do bệnh gây ra

Thuốc điều trị bệnh Parkinson giúp làm giảm các triệu chứng do bệnh gây ra

3.  Amantadine

Amantadin là dẫn xuất tổng hợp, lúc đầu dùng để chữa cúm (A2 – influenza), tình cờ lại phát hiện có tác dụng tốt với bệnh Parkinson. Trên bệnh Parkinson, Amantadin làm giảm nhanh chứng mất vận động nhưng ít làm thay đổi chứng run và tăng trương lực cơ; tác dụng kém levodopa nhưng tốt hơn thuốc hủy cholinergic. Tác dụng tối đa xuất hiện sau vài ngày, nhưng giảm dần sau khoảng 6 – 8 tháng dùng liên tục. Thuốc có tác dụng hiệp đồng với Levodopa.

Tác dụng không mong muốn thường gặp khi dùng thuốc là rối loạn tiêu hóa, mất ngủ, giật cơ, phù chi. Dùng lâu có thể thấy xuất hiện những mảng tím ở chi dưới do catecholamine được giải phóng tại chỗ gây co mạch.

4.  Thuốc kháng cholinergic

Trong một bộ não khỏe mạnh, Dopamine cùng tồn tại trong sự cân bằng với một dẫn truyền thần kinh được gọi là Acetylcholine. Khi nồng độ Acetylcholine tăng lên, việc sản xuất Dopamine sẽ bị giảm xuống hoặc dừng lại, gây ra một số triệu chứng như bệnh Parkinson. Bằng cách giảm lượng Acetylcholine trong não, thuốc kháng cholinergic có thể giúp cải thiện sự cân bằng, từ đó làm giảm các triệu chứng như run, chảy nước dãi, và một số hiện tượng cứng khớp khác. Liều dùng được điều chỉnh phù hợp cho tuổi và cân nặng. Người cao tuổi thường không thể chịu được liều lượng lớn. Ngay cả ở liều nhỏ, thuốc kháng cholinergic có thể gây suy giảm trí nhớ và mất phương hướng. Tác dụng phụ khác bao gồm nhịp tim nhanh, các vấn đề về tầm nhìn, táo bón, bí tiểu, và khô miệng trầm trọng. Những hiệu ứng này giảm dần khi liều dùng được giảm hoặc ngừng thuốc. Thuốc kháng cholinergic bao gồm benztropine (Cogentin), biperiden (Akineton), procyclidine (Kemadrin), và trihexyphenidyl (Artane).

5.  Chất ức chế Comt

Là những chất ức chế men catechol O-methyl transferase (COMT), một loại enzym làm bất hoạt Dopamin. Thuốc có tác dụng làm tăng tính khả dụng sinh học của Levodopa và kéo dài thời gian bán hủy của nó, vì vậy cho phép giảm liều Levodopa khi sử dụng phối hợp.

2 loại thuốc được sử dụng bao gồm: Tolcapone (Tasmar) và Entacapone (Comtan). Tolcapone có thể gây tổn thương gan, vì vậy người dùng nên làm xét nghiệm chức năng gan mỗi hai tuần một lần. Entacapone an toàn hơn, không ảnh hưởng đến chức năng gan.

6. Thuốc chống trầm cảm

Nhiều người bị Parkinson có thể có dấu hiệu trầm cảmlo âu. Các bác sĩ sẽ ưu tiên sử dụng thuốc chống trầm cảm ba vòng, như imipramine (Tofranil), bởi các thuốc này  vừa kháng cholinergic vừa có tác dụng chống trầm cảm. Tuy nhiên thuốc chống trầm cảm ba vòng không nên dùng cho những người có mắc kèm thêm các bệnh lý khác như mất trí nhớ hoặc bệnh tim. Nhiều loại thuốc chống trầm cảm mới hơn cũng có thể được lựa chọn như: chất ức chế tái hấp thu serotonin có chọn lọc (SSRIs) bao gồm citalopram (Celexa), fluoxetine (Prozac), paroxetine (Paxil), và sertraline (Zoloft); hoặc venlafaxine (Effexor), một chất ức chế tái hấp thunorepinephrine và serotonin có chọn lọc; hoặc bupropion (Wellbutrin), chất ức chế tái hấp thu Dopamine.

Bên cạnh các thuốc điều trị chính như kể trên, người bệnh nên kết hợp sử dụng thêm các sản phẩm có nguồn gốc Đông y như thực phẩm chức năng Vương Lão Kiện để giúp hỗ trợ làm tăng cao hiệu quả trong điều trị, giảm bớt triệu chứng run và chậm lại tiến trình phát triển của bệnh.

Chia-se-benh-nhan-chua-run-chan-tay

Hồng Cúc